Do tính cách đọc thơ hoàn toàn chủ quan như đă nói ở trên, xin bạn đừng xem đây như một thiên khảo cứu hay một bộ sưu tập về thi ca Việt-nam. Tôi đọc bằng cảm xúc, không đọc bằng kiến thức. Nếu những lời bàn nào đó của tôi đối với một bài thơ mà không đúng ư tác giả th́ chẳng có nghĩa rằng tôi hiểu sai đâu, mà chỉ v́ tôi đọc thơ tác giả đó bằng cái hồn, cái giọng, cái cảm xúc của tôi đấy thôi. Xin đừng càm ràm, phiền trách. (Vả chăng, này các thi nhân, các bạn có thể nào chỉ tôi làm thơ cách sao mà không bị người khác hiểu sai ư không?) (trích LỜI THƯA của Vĩnh Hảo viết cho các trang "Đọc thơ")

 

 

Vũ Hoàng Chương

 

(1916 - 1975)

 

 

(chiều 17/4/2002)

 

Thơ ông đầy men rượu trong thi phẩm đầu tay: Thơ Say. Ḿnh không có kinh nghiệm say th́ cảm không hết được ư thơ của ông đâu. Dầu vậy, cái men say ấy vẫn cứ lan sang ḷng ḿnh như thường.

 

Ông là một thi sĩ nghiện ngập. Người ta nói thế. Mà tôi cũng biết thế khi tôi đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết (Thất Tiểu Muội), một người bạn thơ của ông. Có một thời gia đ́nh ông tá túc nơi nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Không nhớ khoảng thời gian nào, sau năm 1975; lúc đó ông ở tù ra, một thời gian ngắn rồi mất. Tôi không được gặp ông. Chỉ nghe nữ sĩ Mộng Tuyết nói, kể về ông, thương tiếc một con người tài hoa, không làm sao sống thích nghi với xă hội mới. Theo nữ sĩ Mộng Tuyết kể sơ, ông bị công an kêu lên kêu xuống tra vấn hạch hỏi liên tục; c̣n bị giam nhốt để "cải tạo" tư tưởng lẫn cái bệnh nghiền của ông nữa. Sau ông bệnh quá, công an phải tha về, sống những ngày cuối cùng với vợ con rồi mất tại Sài-g̣n.

 

Người ta nhớ ông nhất ở hai câu:

Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai!

Bốn chữ đầu của câu sau được ông lấy làm tựa đề cho bài thơ dài say tiễn cuộc t́nh chia xa. 

 

Đời vắng em rồi

Sóng dậy đ́u hiu biển dấy sầu

Lênh đênh thương nhớ giạt trời Âu

Thôi rồi - tay nắm tay lần cuối

Chia nẻo giang hồ vĩnh biệt nhau.

Trai lỡ phong vân gái lỡ t́nh

Này đêm tri ngộ xót điêu linh

Niềm quê sực thức ḷng quan ải

Giây phút dừng chân cuộc viễn tŕnh

Tóc xơa tơ vàng nệm gối nhung

Đây chiều hương ngát lả hoa dung

Sóng đôi kề ngọn đèn hư ảo

Mơ kiếp nào xưa đă vợ chồng.

Quán rượu liền đêm chuốc đắng cay

Buồn mưa trăng lạnh nắng hoa gầy

Nắng mưa đă trải t́nh nhân thế

Lưu lạc sầu chung một hướng say

Gặp gỡ chừng như truyện Liêu Trai

Ra đi chẳng hứa một ngày mai

Em ơi lửa tắt b́nh khô rượu

Đời vắng em rồi say với ai

Phương Âu mờ mịt lối quê nàng

Trăng nước âm thầm vạn dặm tang

Ghé bến nào đây người hải ngoại

Chiều sương mặt bể có mơ màng.

Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không

Mà đây ḷng trắng một mùa đông

Tương tư nối đuốc thâu canh đợi

Thoảng gió trà mi động mấy bông.

 

Người t́nh đi xa. Tận trời Âu. Cách chia nhau mà chẳng hứa được điều ǵ chắc chắn. Ngồi đây chuốc rượu mà uống thâu canh. Nghĩ tưởng đoạn đường dài em đi. Phương ấy trời đă rơi tuyết chưa mà sao nơi đây, ḷng tê dại như phủ cả một màu tang. Màu trắng ở đây là màu trắng của tang, của niềm tê tái giá băng, của niềm cô đơn vô tận.

 

Đời vắng em rồi, anh vẫn say. Có em th́ uống say với em cuộc t́nh nồng. Vắng em th́ say nỗi niềm cô độc. Say với những cốc rượu đắng, giết cả tâm hồn. Cố t́nh say như thế để mà quên, để nén niềm đau cứ chực dâng trào. Chỉ khi hết say rồi mới nằm khóc được t́nh mộng ban đầu. 

 

Một phút ngừng say

Bấc trĩu hoa đèn nhựa úa nâu

Phai say nằm khóc mộng ban đầu

Bước chân song sóng ṿng tay mở

Dạo ấy người ơi xa lắm đâu

Chớm nụ tiếc cho t́nh quá ngát

Mà thương trời bể quá cao sâu

Tiếc thương lẻn khói vào tâm trí

Mưa gió tàn đêm lộng quán sầu.

 

Một thi sĩ chung t́nh đến thế! Suốt một đời chỉ sống với thơ, rượu, bàn đèn và t́nh yêu ban đầu. Cuộc t́nh ấy không bao giờ thành, dù ông đă chờ đợi, ước mơ... với bao nhiêu năm tháng mỏi ṃn trong men say và nghiện ngập.

 

Đă có lúc ông t́m quên trong những quán rượu, uống say, nhảy múa với những vũ nữ, lảo đảo quay cuồng theo điệu nhạc... vừa cám cảnh thân phận nhạt nḥa hương phấn của người, vừa đau xót cuộc t́nh không phai mà không thành của ḿnh. Dù nhảy nhót, uống say thâu đêm suốt sáng, cả một "thành sầu" như tảng núi, vẫn kiên cố nằm ́ trong ḷng, chẳng làm sao phá vỡ đi được. Niềm đau, nỗi sầu vẫn c̣n đó. Ông nói với người vũ nữ, mà cũng là nói với ông: sầu này không thể nào phai đi được.

 

Đây là bài luân vũ tuyệt nhất của một gă t́nh si thở tràn hơi rượu:

 

Say Đi Em

Khúc nhạc hồng êm ái

Điệu kèn biếc quay cuồng

Một trời phấn hương

Đôi người gió sương

Đầu xanh lận đận, cùng xót thương, càng nhớ thương

Hoa xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, t́nh nay sao héo?

Hồn ngă lâu rồi nhưng chân c̣n dẻo

Ḷng trôi nghiêng mà bước vẫn du dương

Ḷng thiêng tràn hết yêu đương

Bước chân c̣n nhịp nghê thường lẳng lơ...

Ánh đèn tha thướt

Lưng mềm năo nuột dáng tơ

Hàng chân lả lướt

Đê  mê hồn gửi cánh tay hờ

Âm ba gờn gợn nhỏ

Ánh sáng phai nhạt dần

Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân

Lui đôi vai, tiến đôi chân

Riết đôi tay, ngả đôi chân

Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió

Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ

Hăy thêm say c̣n đó rượu chờ ta

Cổ chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa

Tay mềm mại bước chân c̣n chưa chuếnh choáng

Chưa cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời phóng đăng

C̣n chưa say, hồn khát vẫn thèm men

Say đi em, say đi em

Say cho lơi lả ánh đèn

Cho cung bậc ngả nghiêng điên rồ xác thịt

Rượu, rượu nữa, và quên, quên hết

Ta quá say rồi

Sắc ngă màu trôi

Gian pḥng không đứng vững

Có ai gh́ hư ảnh sát kề môi?

Chân ră rời

Quay cuồng chi được nữa

Gối mỏi gần rơi

Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

Say không c̣n biết chi đời

Nhưng em ơi

Đất trời nghiêng ngửa

Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ

Đất trời nghiêng ngửa

Thành sầu không sụp đổ, em ơi!

 

Đời ông là cả một chuỗi đợi chờ. Đợi chờ cái điều không thể xảy ra, nhưng vẫn cứ đợi, vẫn cứ chờ. Đôi lúc nản ḷng, gần như không c̣n tin tưởng nơi người t́nh nữa, như trong bài "Cánh Buồm Trắng"; ở đó ta thấy sự mỏi ṃn, gần như cạn kiệt của ông, và lời thơ đă có giọng phiền trách:

 

.......

Em ơi ta trằn trọc

Khắc khoải đă bao đêm

Nhớ mong rồi ngờ vực

Đến cả tấm t́nh em

V́ những điều mơ ước

Của tuổi trẻ yêu đời

Thắm tươi như ánh nắng

Đă phai rồi em ơi,

Giấc uyên ương liền cánh

Mộng trăm năm lứa đôi

Êm đềm như tiếng hát

Đă tan rồi em ơi

Trong lo buồn chán ngán

Trong hoàn cảnh éo le

Tuy ta c̣n nhận rơ

Ḷng em yêu xưa kia

Nhưng mai ngày bóng tối

Thẫm măi trên đường đi

Biết đâu c̣n có nữa

Ḷng em yêu xưa kia

Ta đâu c̣n giữ được

Ḷng em yêu như xưa

Em ơi cánh buồm trắng

Sắp biến trong đêm mờ.

 

Ông ví cuộc t́nh mà ông chờ đợi như cánh buồm trắng ngoài dặm khơi. Mỗi ngày ông quan sát, chờ đợi cánh buồm ấy. Cánh buồm ấy không bao giờ quay về bến nhưng nó luôn thoáng hiện lúc gần lúc xa, nhấp nhô theo sóng nước; dầu đă có những lúc nó khuất dạng ngoài dặm xa, ông vẫn ôm hy vọng là nó không bao giờ mất, và đinh ninh một ngày nào đó nó sẽ quay lại. Chỉ khi nản ḷng lắm ông mới bộc lộ vẻ lo sợ về viễn ảnh là cánh buồm trắng sẽ thực sự "biến trong đêm mờ."

 

Nhưng dầu thế nào th́ ông vẫn tiếp tục chờ đợi, chờ đợi. Bao năm pḥng lạnh chờ đợi người t́nh đầu. Không thấy ai ghé thăm, ngoại trừ ánh trăng. May mà hăy c̣n trăng, hăy c̣n thơ. Một đời t́nh, một đời thơ.  Một cuộc t́nh thật sầu thảm mà cũng vừa bi tráng. Bi tráng nơi sức chịu đựng kiên tŕ của một người lặng lẽ chờ đợi, gào thét chờ đợi, say khướt chờ đợi... mà không thấy sự đáp trả nào trong suốt ba mươi năm: 

 

Chờ đợi hoài công

Ta đợi em từ ba mươi năm

Uống hoa phong nhụy hoài trăng rằm

Heo may chớm đă lên mùa gió

Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm

Cúc tả tơi vàng mộng xác xơ

Hiên sương ngơ lá vẫn trông chờ

Đêm dài quạnh hé đôi song lớn

Nguyệt đọng ṿng tay úa giấc mơ

Ngai trống vàng son lợt sắc rồi

Ḷng ta Hoàng hậu chẳng về ngôi

Hồ ly không hiện người không đến

Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi

Hiu hắt t́nh trai một kiếp suông

Mênh mông nệm gối rét căn buồng

Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng

Thơ vút sầu say rượu nhập cuồng

Đă mấy canh khuya nụ ngát nhài

Kết chưa thành mộng ư Liêu Trai

Lung linh nguyệt thấm vàng trang sách

Đợi chẳng bừng sen nhịp gót ai

Thôi thế hoài thơm tuổi dịu hiền

Cánh khô mầm lụi trót hoa niên

Chương đài, ca quán, ôi hồng liễu

Nửa cuộc trần gian lợm yến diên

Khắp đă nghe t́m mỏi núi sông

Đâu vương vó ngựa, gió mui hồng?

Gió sương giờ vẫn buồng đây lạnh?
Em hỡi! Phương nào em có không?

 

Phải ba mươi năm sau, ông mới biết là hoài công. Sự chờ đợi chẳng kết quả ǵ. Nhưng lời thơ, và t́nh yêu của ông th́ bất tử.

 

Đó là một vài bài thời tiền chiến. Về sau, thơ ông không say men rượu nữa, mà say trong lẽ huyền vi, trong Thiền. Những bài thơ rất siêu thoát, xuất thần. Đây bài:

 

Nguyện Cầu

Ta c̣n để lại ǵ không?

Ḱa non đá lở, này sông cát bồi.

Lang thang từ độ luân hồi

U minh nẻo trước xa xôi dặm về.

 

Trông ra bến hoặc bờ mê

Ngh́n thu nửa chớp, bốn bề một phương

Ta van cát bụi bên đường

Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.

 

Để ta tṛn một kiếp say

Cao xanh liều một cánh tay níu trời.

Nói chi thua được với đời

Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.

 

Tâm hương đốt nén linh sầu

Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi!

Đêm nào ta trở về ngôi

Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.

 

Một phen đă nín cung đàn

Nghĩ chi c̣n mất hơi tàn thanh âm.

 

Và bài Lửa Từ Bi, ông ghi là Kính dâng lên Bồ tát Quảng Đức, như bài điếu văn bất hủ mà nhiều người trong giới Phật giáo thuộc ḷng. Bài này được trích từ thi phẩm cùng tên “Lửa Từ Bi” của ông, xuất bản năm 1963, có lẽ là sau khi Bồ-tát Thích Quảng Đức tự thiêu, hoặc sau khi chế độ Ngô Đ́nh Diệm sụp đổ. Trước sự vĩ đại của ngọn lửa Quảng Đức, nhà thơ nói “vần điệu của thi nhân chỉ c̣n là rơm rác,” tự cho là không ngôn ngữ nào có thể diễn bày được niềm kính ngưỡng của ḿnh đối với vẻ cao cả tót vời của đức hy sinh v́ Chánh Pháp và phúc lạc của Dân tộc. Dù ông tự phê ngôn ngữ thi nhân bất lực, rơm rác, đă 50 năm qua, vẫn chưa thấy bài thơ nào vượt qua được bài Lửa Từ Bi trong sự vinh danh, tán thán nguyện lực của Bồ-tát Quảng Đức. Có thể nói rằng, thơ ông đă “cháy lên theo với lời Kinh tụng cho Nhân loại ḥa b́nh,” cháy theo ngọn lửa bi hùng và chạm đến được vạt áo của Bồ-tát với trái tim bất diệt. Thơ như vậy, dù khiêm nhường thế nào, cũng đă bất hủ trong nền văn học sử Phật giáo, và Dân tộc.

 

Lửa! lửa cháy ngất ṭa sen!

Tám chín phương nhục thể trần tâm

hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.

Hai Vầng Sáng rưng rưng

Đông Tây nḥa lệ ngọc

chắp tay đón một Mặt-trời-mới-mọc

ánh Đạo Vàng phơi phới

đang bừng lên, dâng lên.

 

Ôi! Đích thực hôm nay trời có mặt;

giờ là giờ Hoàng đạo nguy nga!

Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt

nh́n nhau: t́nh Huynh đệ bao la.

 

Nam mô Đức Phật Di Đà

Sông Hằng kia bởi đâu mà cát bay?

Thương chúng sinh trầm luân bể khổ

NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày

bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây;

gọi hết lửa vào xương da bỏ ngơ,

Phật Pháp chẳng rời tay.

 

Sáu ngả Luân hồi đâu đó

mang mang cùng nín thở,

tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh xe quay.

Không khí vặn ḿnh theo

khóc ̣a lên nổi gió;

NGƯỜI siêu thăng

giông băo lắng từ đây.

Bóng NGƯỜI vượt chín tầng mây,

nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề.

 

Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc

lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi;

chỗ NGƯỜI ngồi: một thiên thu tuyệt tác

trong vô h́nh sáng chói nét Từ Bi.

 

Rồi đây, rồi mai sau, c̣n chi?

ngọc đá cũng thành tro

lụa tre dần mục nát

với Thời gian lê vết máu qua đi.

C̣n măi chứ! C̣n Trái-Tim-Bồ-Tát

gội hào quang xuống tận ngục A-tỳ.

 

Ôi ngọn lửa huyền vi!

thế giới ba ngh́n phút giây ngơ ngác

từ cơi Vô minh

hướng về Cực lạc;

vần điệu của thi nhân chỉ c̣n là rơm rác

và chỉ nguyện được là rơm rác,

THƠ cháy lên theo với lời Kinh

tụng cho Nhân loại ḥa b́nh

trước sau bền vững t́nh Huynh đệ này.

 

Thổn thức nghe ḷng trái Đất

mong thành quả Phúc về cây;

nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật;

đồng loại chúng con

nắm tay nhau tràn nước mắt,

t́nh thương hiện Tháp-Chín-Tầng xây.

(Sài-g̣n tháng 5, Phật lịch 2507, tháng 6-1963)

 

Có lúc thơ ông thể hiện vẻ hùng tráng ngất trời. Chẳng hạn ở Bài Ca Sông Dịch:

 

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

C̣n tưởng nghe hồn thép múa sông sâu

Kinh Kha hề Kinh Kha!

Vinh cho ngươi hề ba ngh́n tân khách

Tiễn ngươi đi, tiếng trúc nhịp lời ca.

Biên thùy trống giục,

Nẻo Tần sương sa,

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà.

 

Tám phương trời khói lửa,

Một mũi dao sang Tần.

Ai trách Kinh Kha rằng việc người để lỡ

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân.

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần.

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ, thây ngă hai bên.

Một triều rối loạn, ngai vàng xô nghiêng.

Áo rách thân run hề ghê hồn bạo chúa,

Hùng khí nuốt sao ngưu hề nộ khí xung thiên.

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ,

Hiệp sĩ Kinh Kha hề ngươi thác đă nên!...

(Tâm Sự Kẻ Sang Tần)

 

Đôi khi thơ ông u uất nỗi sầu chung của đất nước và thời thế, muốn vươn đến những cơi cao rộng xa xăm khác. Mấy mươi năm, số phận nhỏ nhoi rồi bệnh tật của ông, không vươn khỏi những biến động của xă hội, cũng như gông cùm xiềng xích của chế độ cộng sản, nhưng thơ ông đă từ lâu, và măi măi, như cánh phượng hoàng (ư của Viên Linh), chạm đến cái chỗ chóp đỉnh cao vời của nền thi ca Việt-nam. Ở nơi chốn ấy, không ai trói buộc ông được. Một ḿnh tung cánh giữa trời cao rộng.

 

Vĩnh Hảo

(17/4/2002)

 

 

---oOo---

 

Giới thiệu thêm:

Đây là một vài bài khác nữa của ông, trích từ Chiêu Niệm Văn Chương - Vũ Hoàng Chương của Viên Linh:

 

Phương Xa

Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng

Xô về Đông hay giạt tới phương Đoài.

Xa mặt đất giữa vô cùng cao rộng

Ḷng cô đơn cay đắng họa dần vơi.

 

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa

Bị quê hương ruồng bỏ giống ṇi khinh.

Bể vô tận sá ǵ phương hướng nữa

Thuyền ơi thuyền theo gió hăy lênh đênh.

 

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ

Một đôi người u uất nỗi trơ vơ.

Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị

Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

 

Men đă ngấm, bọn ta chờ nắng tắt

Treo buồm cao, cũng cao tiếng ḥ khoan

Gió đă nổi, nhịp trăng chiều hiu hắt

Thuyền ơi thuyền, theo gió hăy cho ngoan.

 

 

Mười Hai Tháng Sáu

Trăng của nhà ai trăng một phương

Nơi đây rượu đắng mưa đêm trường

Ờ đêm tháng sáu mười hai nhỉ

Tố của Hoàng ơi hỡi nhớ thương.

 

Là thế là thôi là thế đó

Mười năm thôi thế mộng tan tành

Mười năm trăng cũ ai nguyện ước

Tố của Hoàng ơi Tố của Anh.

 

Tháng sáu mười hai - từ đấy nhé

Chung đôi - từ đấy nhé ĺa đôi.

Em xa lạ quá đâu c̣n phải

Tố của Hoàng xưa Tố của tôi.

 

Men khói đêm nay sầu dựng mộ

Bia đề tháng sáu ghi mười hai.

T́nh ta ta tiếc - cuồng - ta khóc

Tố của Hoàng nay Tố của Ai.

 

Tay gơ vào bia mười ngón rập

Mười năm theo máu hận trào rơi.

Học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp

Khúc Cổ Bồn Ca gơ hát chơi.

 

Kiều Thu hề Tố em ơi

Ta đang lửa đốt tơi bời Mái Tây

Hàm Ca nhịp gơ khói bay

Hồ Xừ Xang Xế... bàn tay điên cuồng.

 

Kiều Thu hề trọn kiếp thương

Sầu cao ngùn ngụt mấy đường tơ khô.

Xừ Xang Xế Xự Xang Hồ

Bàn tay nhịp gơ điên rồ khói lên.

 

Kiều Thu hề Tố hỡi em

Nghiêng chân rốn bể mà xem lửa bùng.

Xế Hồ Xang... khói mờ rung

Nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn.

 

Một trong vài bài thơ ông làm trong tù:

 

Nét Đau Mặt Chữ

Chẳng dùng chi được văn tài

Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ

Phút giây chết điếng hồn thơ

Nét đau mặt chữ đến giờ c̣n đau.

 

Chắc ǵ ba trăm năm sau

Đă ai vào nổi cơn sầu nằm đây

Nếu không cơm áo đọa đầy

Nhủ thân nào thịt xương nầy bỗng dưng.

 

Chết theo vào đến lưng chừng

Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi

Nửa chiều say ngất mê tơi

Khúc đâu lơ láo một đời Thi Vương.

 

 

 

 

 

Trở về mục Đọc Thơ